Các công cụ
cơ bản nhưng
là nền tảng và đặc biệt
quan
trọng trong PTKT có
thể
kể đến như:
- Ngưỡng hỗ trợ (support), kháng cự (resistant)
- Xu hướng (trend), kênh xu hướng
- Candlestick (giao dịch với biểu đồ nến)
- Các chỉ báo
- Các mấu hình
- Ứng dụng Fibonacci trong PTKT
- Lý thuyết sóng Elliott (Elliottwave)
CHƯƠNG I: CÁC KIỂU BIỂU ĐỒ
1.1 Line Charts
(Biểu đồ đường kẻ đơn)
1.2 Bar Charts
(Biểu đồ thanh chắn)
Một biểu đồ thanh
chắn cũng hiển thị các giá
đóng, trong khi đó đồng thời hiển thị các giá mở
(opening price) cũng như giá cao (high price) và giá thấp
(low price). Gốc của thanh đứng chỉ giá trao đổi
thấp nhất tại thời điểm đó,
trong khi ngọn của thanh chỉ giá cao nhất
được trả. Vì vậy, thanh đứng chỉ
khoảng giá giao dịch
trong phiên của chứng khoán. Nhánh
ngang bên trái thanh đứng là giá mở,
và nhánh ngang bên phải là giá đóng.
Biểu đồ thanh
cũng được gọi là biểu đồ “OHLC” (Open, High, Low, Close) bởi vì
nó chỉ ra giá mở, giá cao, giá
thấp và giá đóng.
- Open: Giá mở là đường ngang nhỏ bên trái
- High: Giá cao là đỉnh của đường đứng xác định giá cao nhất trong khoảng thời gian.
- Low: Giá thấp là đáy của đường đứng xác định giá thấp nhất trong khoảng thời gian.
- Close: Giá đóng là đường ngang nhỏ bên phải
Ví dụ: Diễn biến
VNIndex từ ngày 19/11/2011 – 1/6/2012 theo Bar chart
Ghi chú: một thanh
là một ngày (ngoài ra
có thể hiện thị ở dạng
1 giờ, 1 tuần, 1 tháng,…)
1.3 Candlestick Charts
(Biểu đồ nến)
Biểu đồ nến hiển
thị cùng thông tin như một
biểu đồ thanh, nhưng theo một
định dạng đồ họa đẹp hơn. Các thanh nến vẫn chỉ khoảng giá cao
đến giá thấp bằng một đường đứng.
Tuy nhiên, trong
biểu đồ nến, một hình chữ nhật ở
giữa chỉ khoảng giữa giá mở
và giá đóng. Theo thông tục, nếu
hình chữ nhật được làm đầy
hoặc có màu thì giá đóng thấp hơn giá mở.
Trong ví dụ bên
dưới, màu đen là được làm đầy.
Đối với hình chữ nhật đen, đỉnh của chữ nhật là
giá mở và đáy là giá đóng.
Nếu giá đóng cao hơn giá mở thì chữ nhật sẽ trắng hoặc không màu.
Mục đích của đồ
thì nến hoàn toàn là phục
vụ cho việc quan sát, bởi vì các
thông tin hiển thị giống như
biểu đồ thanh O,H,L,C. Ưu điểm của
biểu đồ nến là:
- Các nến dễ hiểu và thuận tiện đối với người mới bắt đầu để tính toán phân tích đồ thị
- Các nến dễ sử dụng. Mắt của bạn sẽ thích ứng nhanh chóng với các thông tin trong ký hiệu thanh
- Các nến và các mẫu nến có tên dễ nhớ chẳng hạn như sao băng (shooting star)
- Các nến thì thuận tiện cho việc xác định các điểm điều chỉnh của thị trường – các đảo hướng từ một xu hướng tăng thành một xu hướng giảm hoặc ngược lại.
Bây giở bạn đã
biết tại sao các nến rất hay
và chúng ta sẽ sử dụng biểu đồ nến cho hầu hết các ví dụ về sau.
Tóm tắt:
Có 03 loại biểu
đồ thông dụng:
- Biểu đồ đường đơn
- Biểu đồ thanh
- Biểu đồ nến
Từ bây giờ chúng ta sẽ sử dụng biểu đồ nến
CHƯƠNG II: GIAO DỊCH VỚI BIỂU ĐỒ NẾN (CANDLESTICKS)
Chúng ta đã đề
cập vắn tắt về biểu đồ
nến trong bài trước, bây
giờ chúng ta sẽ đi sâu
hơn và bàn luận thêm về biểu
đồ nến. Trước hết hãy ôn lại.
2.1 Nến là gì?
Cách đây hơn 200
năm,
người Nhật đã sử dụng kiểu
phân tích kỹ thuật của họ trong thị trường gạo. Kiểu phân tích này đã phát triển thành kỹ thuật phân tích biểu đồ hình nến hiện được sử dụng
trên thế giới. Biểu đồ nến là một công cụ độc lập hữu ích.
Biểu đồ nến có thể được kết hợp với các công cụ kỹ
thuật khác để tạo ra một
kỹ thuật khác. Sự phối hợp các nến có thể đưa ra một chu kỳ thống
nhất. Ngoài ra, các nến có
thể chỉ ra một biến động giá.
Các nến được hình thành bằng
cách sử dụng giá mở, giá cao, giá thấp và giá
đóng. Nếu giá đóng trên giá
mở có một nến trắng. Nếu giá đóng dưới giá mở ta có một nến đen. Phần chữ nhật trắng hoặc đen của nến được gọi là thân.
Các đường bên trên và bên dưới thân đại diện cho
khoảng giá cao/giá thấp
và được gọi là bóng. Giá cao được đánh dấu bởi đỉnh của bóng trên và giá thấp là đáy bóng dưới. Điều này cung cấp
cho bạn thông tin quan
trọng về động thái của giá và tạo thành bản chất của nến.
2.1.1 Thân dài đối
lập với thân ngắn
Thân dài hơn chỉ
áp lực mua hoặc bán mạnh
hơn. Ngược lại các nến ngắn hơn chỉ sự biến động giá ít hơn và mô
tả một sự do dự giữa tăng giá
(đầu cơ, bulls) và giảm giá (bán tháo, bears). Bull là người mua, bear
là người bán.
Các nến trắng dài
hiển thị áp lực mua mạnh.
Nến trằng dài hơn, hơn nữa giá
đóng bên trên giá mở.
Điều này chỉ ra rằng giá tăng
đáng kể từ giá mở đến giá đóng và người mua nhiều hơn. Nói các khác, người mua
đang chống lại người bán.
Nến đen dài chỉ
áp lực bán mạnh. Nến đen dài hơn, hơn nữa giá đóng bên dưới giá mở. Điều này chỉ rằng giá giảm nhiều
từ giá mở và người bán nhiều hơn. Nói cách khác, người bán đang
giành giật người mua.
2.1.2 Bóng dài đối
lập với bóng ngắn
Bóng trên và bóng
dưới của nến có thể cung cấp thông tin giá trị về
phiên giao dịch. Bóng trên mô
tả phiên giao dịch cao và bóng
dưới là phiên giao
dịch thấp.
Nến với bóng ngắn
chỉ rằng phần lớn hoạt động giao dịch được giới hạn
gần giá mở và giá đóng. Nến
với bóng dài chỉ rằng
hoạt động giao dịch được mở
rộng so với giá mở và giá đóng.
Nến với bóng trên
dài và bóng dưới ngắn chỉ rằng người mua chiếm ưu
thế trong kỳ giao dịch và giá đặt mua cao hơn. Tuy nhiên, người bán sau đẩy
giá xuống khỏi mức cao
và giá đóng yếu tạo ra bóng trên dài.
Trong trường hợp
khác, nến với bóng dưới dài và bóng trên ngắn chỉ
rằng
người bán chiếm ưu thế
trong phiên giao dịch và khiến cho giá thấp hơn. Tuy nhiên, người mua sau đặt lại
giá mua cao hơn vào cuối kỳ giao dịch và giá đóng cao (mạnh)
tạo ra bóng thấp dài.
2.2 Các mẫu cơ bản
2.2.1 Marubozu
Marubozu nghĩa là
không có bóng trên thân. Giá thấp và giá cao được mô tả bởi giá
mở và giá đóng
Một Marubozu
trắng là một thân trắng dài
không có bóng chỉ xu hướng đầu cơ (tăng giá).
Nó hình thành khi giá mở
bằng giáthấp và giá đóng bằng giá
cao. Điều này chỉ ra rằng
người mua điều khiển hoạt động giá từ giao dịch đầu tiên đến
giao
dịch cuối cùng. Nó thường trở thanh phần đầu tiên của một thời kỳ
tăng giá kéo dài hoặc
một
mẫu chuyển sang hướng tăng giá.
Một Marubozu đen
là một thân đen dài không bóng. Nó hình thành khi giá
mở bằng giá cao và giá đóng bằng giá thấp. Điều này chỉ rằng người bán điều
khiển hoạt động giá từ phiên giao dịch đầu đến
cuối. Nó thường đưa đến thời kỳ giảm giá
kéo dài hoặc đổi sang hướng giảm giá.
2.2.2 Spinning Tops
Nến với một bóng trên dài,
bóng dưới dài và thân nhỏ
được gọi là đỉnh xoay. Màu của thân không quan trọng lắm. Mẫu này
chỉ sự giằng co giữa xu hướng tăng giá và giảm giá.
Một thân nhỏ chỉ
sự biến động nhỏ giữa giá mở và giá đóng, và bóng chỉ rằng cả
người mua và người bán tích
cực hoạt động trong suốt phiên giao dịch. Mặc dù
phiên giao dịch mở và đóng với một chút ít biến
động, giá biến đổi đáng kể cao hơn và thấp hơn trong
kỳ giao dịch. Cả người bán cũng như người mua không
thể giành được quyền kiểm soát cao hơn và kết quả là tạm ngưng (giải lao, standoff).
Sau một nến trắng dài hoặc một giai đoạn tăng giá dài (tăng trưởng), một
spinning top chỉ sự yếu đi giữa
người mua và một thay đổi tiềm năng hoặc sự gián đoạn trong xu hướng.
Sau một nến đen dài hoặc một giai đoạn suy
giảm dài, một đỉnh xoay chỉ sự yếu đi giữa người
bán và một thay đổi tiềm năng hoặc sự gián đoạn trong xu
hướng.
2.2.3 Doji
Đường Doji là mẫu
với cùng giá mở và giá đóng.
Theo lý tưởng,
giá mở và giá đóng nên bằng
nhau. Một doji với giá mở và giá đóng bằng nhau sẽ được ưu tiên,
điều này quan trọng để nằm được bản chất của nến.
Doji truyền đạt một
khả năng của sự giành co hoặc cuộc tranh đua giữa người bán và người mua. Giá biến đổi trên và dưới giá mở
trong suốt kỳ giao dịch, nhưng đóng tại hoặc gần giá mở. Kết
quả là sự tạm ngừng. Cả người bán và mua đều không thể giành quyền
kiểm soát và điểm chuyển đổi có thể phát sinh.
Việc xác định tầm quan trọng của Doji sẽ phụ thuộc
vào giá, biến đổi gần đó, và các nến trước đó. Liên quan đến
nến trước đó, doji có một thân rất ngằn xuất hiện như
một đường mỏng. Một doji hình thành giữa các nến khác với thân nhỏ (như đỉnh xoay) sẽ không được coi là quan trọng. Tuy
nhiên, một doji hình thành
giữa các nến với thân dài
sẽ được cho rằng có ý nghĩa.
Có 04 kiểu doji đặc biệt. Chiều dài của bóng trên và dưới
có thể biến đổi và nến trông như thánh giá, thánh giá
đảo ngược hoặc dấu trừ. Từ “doji” ám chỉ cả dạng số ít hoặc
số nhiều.
2.2.4 Doji và xu hướng
Sự liên quan của một doji dựa trên xu hướng trước đó hoặc
các nến trước đó. Sau một đợt tăng giá, hoặc một nến
trắng dài, một doji báo hiệu
rằng áp lực mua bắt đầu yếu.
Sau một đợt
giảm giá hoặc một nến đen dài, một doji báo hiệu rằng áp lực bán bắt đầu hạ bớt.
Doji chỉ rằng cán cân cung và cầu đang trở nên cân bằng và một biến đổi xu hướng sắp diễn ra. Chỉ riêng Doji thì không đủ để
chứng tỏ một sự đảo chiều và cần phải
có thêm các thông tin khác.
Sau một đợt
tăng giá, hoặc một nến trắng dài, một một doji báo hiệu
rằng áp lực mua bắt đầu yếu và xu
hướng lên có thể sắp sửa kết thúc. Giá giảm thường là từ một vị trí không
có người mua, sự duy trì áp lực mua
cần thiết để giữ vững xu hướng lên.
Do đó, một doji có thể có ý nghĩa hơn sau một xu
hướng lên hoặc một nến trắng dài. Kể cả sau khi một doji hình thành,
hướng xuống tiếp sau đó cần thiết cho
việc xác nhận giảm giá.
Sau một đợt
giảm giá hoặc một nến đen dài, một doji chỉ rằng áp lực bán có thể giảm bớt và xu hướng xuống có thể sằp chấm dứt. Mặc dù người mua đang bắt đầu mất
quyền kiểm soát giá giảm,
cần có thêm mua mạnh để
xác định một đảo hướng.
2.3 Các mẫu đảo hướng
2.3.1 Xu hướng
trước đó
Đối với một mẫu đủ điều kiện coi như một mẫu
đảo hướng, cần có một xu
hướng trước đó để đảo hướng. Đảo hướng tăng
giá cần một hướng xuống trước
đó và đảo hướng giảm giá cần
một hướng lên trước đó.
2.3.2 Đảo hướng
bóng dài (Long Shadow)
Có hai cặp mẫu đảo hướng
nến đơn hình thành bởi một
thân nhỏ, một bóng dài và một
bóng ngắn hoặc không có. Bóng dài cần dài
ít nhất bằng hai lần
thân, thân có thể là trắng hoặc đen. Vị trí của bóng
dài và động thái giá trước đó quyết định sự phân
loại.
Cặp đầu tiên, cái
búa (hammer) và người bị treo
(hanging man), với một thân nhỏ và bóng dài bên dưới. Cặp thứ hai, sao băng
(shooting star) và búa ngược (inverted hammer), với một
thân nhỏ và bóng trên dài.
Động thái giá trước đó
và thông tin thêm nữa
quyết định bản chất tăng giá hoặc giảm giá của nến. Cái búa và búa ngược hình thành
sau một giảm giá và là mẫu đảo hướng tăng giá,
trong khi một sao
băng và người bị treo hình
thành sau một tăng giá và là mẫu đảo hướng giảm giá.
2.3.3 Hammer and
Hanging Man (Cái búa và người bị treo)
Chiếc búa và
người bị treo hoàn toàn giống nhau, nhưng có khác nhau dựa vào động thái giá trước đó. Cả
hai có thân nhỏ (đen hoặc trắng), bóng dưới dài
và bóng trên ngắn hoặc không có. Như với hầu hết việc hình thành nến đơn hoặc đôi, chiếc búa và người bị treo cần xác định động thái trước đó
Chiếc búa là một mẫu
đảo chiều tăng giá mà
nó hình thành trong một
xu hướng đi xuống. Nó được gọi như vậy vì thị
trường đang bị ép xuống đáy. Sau một đợt giảm giá,
chiếc búa báo hiệu một sự hồi phục tăng giá. Mức thấp của
bóng dưới dài hàm ý
rằng người bán đã điều khiển giá thấp hơn trong phiên giao
dịch. Tuy nhiên, phần cuối mạnh
chỉ rằng người mua giành
lại vị trí của họ tại cuối phiên giao dịch. Trong khi
điều này dường như để tác động, chiếc búa cần thêm sự xác
định tăng giá. Mức thấp của chiếc búa chỉ rằng hiện còn
nhiều người bán. Có thêm áp lực mua
thì cần thiết trước khi hành động. Sự xác định điều này là
một nến trắng dài.
Tiêu chuẩn nhận
biết:
- Bóng dài khoảng hai hoặc 3 lần thân.
- Bóng trên nhỏ hoặc không có.
- Thân ở vị trí trên của cuối một kỳ giao dịch
- Màu của thân không quan trọng.
Người bị treo là một mẫu
đảo hướng giảm giá mà
cũng có thể đánh dấu một đỉnh hoặc mức kháng cự. Tạo thành sau một
đợt tăng giá, một người bị treo báo hiệu
rằng áp lực bán bắt đầu tăng. Mức thấp của bóng dưới
dài xác nhận rằng người bán đẩy giá xuống trong
phiên giao dịch. Mặc dù người mua đã giành lại vị
trí (sự cân bằng) và điều khiển
giá cao hơn vào lúc cuối, sự xuất hiện áp lực
bán là cần thiết cho việc
đảo hứơng. Như với chiếu búa, một người bị treo cần sự xác nhận
giảm giá trước khi hành động. Sự xác định chính là một
nến đen dài.
Tiêu chuẩn nhận
biết:
- Một bóng dưới dài khoảng 2 hoặc 3 lần thân.
- Bóng trên nhỏ hoặc không có
- Thân tại vị trí trên của cuối kỳ giao dịch
- Màu của thân không quan trọng, dù vậy một thân đen thì giá giảm hơn một thân trắng.
2.3.4 Inverted
Hammer and Shooting Star (Búa ngược và sao băng)
Một búa ngược và
sao băng giống như nhau, nhưng có khác nhau dựa vào bạn
đang trong xu hướng xuống hay xu
hướng lên. Nến có thân nhỏ (trắng hoặc đen), bóng trên
dài
và bóng dưới không có hoặc ngắn. Các
nến này chứng tỏ tiềm năng
đảo hướng, nhưng cần sự xác định trước khi giao dịch.
Sao băng là một
đảo chiều giảm giá, Nó xảy ra trong một xu hướng lên, nó chỉ rằng giá mở tại mức
thấp của nó, củng cố lại và
đẩy lùi xuống đáy. Một sao băng có thể chứng tỏ một tiềm năng đảo hướng hoặc mức kháng cự. Kết quả nến có một bóng
trên dài và thân đen hoặc trắng nhỏ. Sau một
đợt tăng giá lớn (bóng trên), khả năng của người bán để
đẩy giá xuống xuất hiện. Để biểu thị một đảo hướng đáng kể, bóng tên cần dài và
ít nhất bằng 2 lần thân. Sự
xác định giảm giá cần thiết sau
một sao băng và có thể xác định
nhờ sự hình thành một nến đen dài.
CHƯƠNG III: HỖ TRỢ VÀ KHÁNG CỰ, CÁC ĐƯỜNG XU HƯỚNG, CÁC KÊNH
3.1 Hỗ trợ và kháng cự
(Support and Resistance)
Hỗ trợ và kháng
cự là một trong phần lớn các khái niệm được sử dụng
rộng rãi trong kinh doanh. Mọi người có ý nghĩ dựa vào đâu để đo lường sự hỗ trợ và kháng cự.
Hãy nhìn qua hình cơ bản đầu tiên
Nhìn vào lưu đồ trên, bạn
có thể thấy, mẫu chữ chi này đang đi lên
(thị trường tăng giá). Khi
thị trường đi lên và sau đó kéo trở
lại, nó đạt đến đỉnh cao nhất trước khi bị kéo xuống và ta có sự kháng cự.
Khi thị trường tiếp
tục lên lần nữa, nó đạt đến điểm thấp nhất trước khi
bắt đầu trở lại khi này ta có sự hỗ trợ.
Bằng cách này sự kháng cự và hỗ trợ được hình thành liên tục như khi thị trường dao động theo thời
gian. Trái với trường hợp này
ta có xu hướng xuống.
Có 02 điểm quan
trọng cần ghi nhớ :
- Khi thị trường trãi qua sự kháng cự, sự kháng cự trở thành hỗ trợ.
- Vùng kháng cự hoặc hỗ trợ là vùng mà giá thường có mức kháng cự hoặc hỗ trợ nhưng không phá vỡ nó.
3.2 Đường xu hướng
Đường biểu diễn xu hướng
hầu như là dạng phổ biến nhất của phân tích kỹ thuật được sử dụng hiện nay. Chúng hầu như cũng là một dạng không được sử dụng đúng mức
nhất.
Nếu được vẽ đúng, chúng có thể chính xác như bất kỳ phương pháp nào khác. Nhưng đáng tiếc, phần lớn những người kinh doanh không
vẽ đúng hoặc họ có làm cho đường
hợp với thị trường thay cho một hướng khác.
Trong dạng cơ bản nhất, một
đường lên được vẽ từ đáy của vùng hỗ trợ (khe) có thể nhận biết dễ dàng. Trong một hướng xuống, đường xu hướng được vẽ từ
đỉnh của vùng kháng cự (đỉnh).
3.3 Kênh (Channels)
Nếu chúng ta bước thêm một
bước về lý thuyết đường xu hướng và vẽ một đường
song song có cùng góc của đường lên hoặc xuống, chúng ta sẽ tạo ra một
kênh.
Để tạo một kênh lên, đơn giản vẽ một đường
song song có cùng góc với đường hướng lên và sau đó dời đường đó đến vị trí chạm đỉnh
gần đó. Điều này nên được thực hiện cùng lúc với tạo
đường xu hướng.
Để tạo một kênh xuống, vẽ một đường song song có
cùng góc với đường xuống và sau đó
dời đường đó tới vị trí chạm đáy gần đó nhất. Điều này nên được thực hiện cùng lúc
với tạo đường xu hướng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét